1. Vài nét về hệ thống quan trắc môi trường ở Việt Nam
a. Mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia
Thực hiện Luật Bảo vệ môi trường năm 1993, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (trước đây) đã xây dựng và đưa vào hoạt động mạng lưới trạm quan trắc môi trường quốc gia. Các trạm quan trắc môi trường quốc gia được xây dựng trên cơ sở phối hợp giữa Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (trước đây) với các cơ quan nghiên cứu, phòng thí nghiệm đang hoạt động của các Bộ, ngành và địa phương gồm Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Quốc phòng, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và tỉnh Lào Cai. Tại thời điểm đó, đây là biện pháp hiệu quả và kịp thời, tận dụng được cơ sở vật chất về trang thiết bị cũng như nguồn nhân lực sẵn có của các cơ quan này. Tính đến năm 2002, mạng lưới đã có 21 trạm được thành lập, tiến hành quan trắc các thành phần môi trường như: nước mặt lục địa, nước dưới đất, nước mưa, nước biển, đất, phóng xạ, không khí xung quanh và tiếng ồn, chất thải rắn, môi trường lao động, y tế và công nghiệp,... tại hàng nghìn điểm quan trắc trên toàn quốc với tần suất khoảng từ 2 đến 6 lần/năm.
Sau khi Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập năm 2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 về “Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và Nhà nước cho ra đời Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng để Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 16/2007/QĐ-TTg ngày 29 tháng 01 năm 2007 về việc phê duyệt “Quy hoạch tổng thể mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia đến năm 2020” (sau đây gọi là Quyết định số 16).
Căn cứ theo Quyết định số 16, mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia được chia thành hai mạng lưới: (1) Mạng lưới quan trắc môi trường nền và (2) Mạng lưới quan trắc môi trường tác động.
- Mạng lưới quan trắc môi trường nền được xây dựng trên nguyên tắc kế thừa các trạm, điểm quan trắc môi trường đã có thuộc mạng lưới quan trắc môi trường không khí và nước do Tổng cục Khí tượng Thuỷ văn (trước đây) và mạng lưới quan trắc môi trường nước dưới đất do Tổng cục Địa chất (trước đây) quản lý. Nay, Trung tâm Khí tượng Thuỷ văn quốc gia và Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đều đã nhập về Bộ Tài nguyên và Môi trường, do Bộ quản lý và giao nhiệm vụ quan trắc môi trường nền trực tiếp.
- Mạng lưới quan trắc môi trường tác động được xây dựng trên nguyên tắc kế thừa các trạm, điểm quan trắc môi trường đã có thuộc mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia trước đây do Tổng cục Môi trường quản lý, và một số trạm, điểm quan trắc môi trường do Trung tâm Khí tượng Thủy văn quốc gia và Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam... quản lý thực hiện. Theo Quyết định số 16, Trung tâm Quan trắc môi trường thuộc Tổng cục Môi trường được xác định là Trung tâm đầu mạng, thực hiện vai trò chỉ huy, điều hành hoạt động của toàn mạng lưới.
Đồng thời, đối với mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia gồm 14 loại hình trạm quan trắc như sau
* Đối với mạng lưới quan trắc môi trường nền:
- Trạm quan trắc môi trường không khí, nước mặt lục địa (sông, hồ,…);
- Trạm quan trắc môi trường biển;
- Trạm quan trắc môi trường không khí và nước mặt lục địa, lắng đọng axit;
- Trạm vùng quan trắc nền nước dưới đất;
* Đối với mạng lưới quan trắc môi trường tác động:
- Trạm vùng tác động (10 Trạm);
- Trạm vùng ven bờ (03 Trạm);
- Trạm vùng biển khơi (04 Trạm);
- Trạm vùng đất (03 Trạm);
- Trạm vùng phóng xạ (04 Trạm);
- Trạm quan trắc đa dạng sinh học;
- Trạm quan trắc và phân tích môi trường nước sông (09 Trạm);
- Trạm quan trắc chất thải;
- Trạm không khí tự động (58 Trạm).
Hình 1. Bản đồ hệ thống các điểm quan trắc môi trường quốc gia
b. Mạng lưới quan trắc môi trường địa phương
Thực hiện Nghị định số 81/2007/NĐ-CP ngày 23/5/2007 của Chính phủ quy định tổ chức, bộ phận chuyên môn về bảo vệ môi trường tại cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nhà nước và Thông tư liên tịch số 12/2007/TTLT-BTNMT-BNV ngày 27/12/2007 giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 81/2007/NĐ-CP, phần lớn các địa phương đã thành lập đơn vị trực thuộc thực hiện chức năng quan trắc môi trường, theo dõi và giám sát chất lượng môi trường không khí và nước trên địa bàn của địa phương mình. Tính đến giữa năm 2010, đã có trên 40 địa phương trong cả nước thành lập Trung tâm Quan trắc môi trường với các tên gọi khác nhau, trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường hoặc Chi cục Môi trường.
Tại một số địa phương có nguồn ngân sách dồi dào hoặc có sự hỗ trợ kinh phí của các dự án, tổ chức trong và ngoài nước (như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Đà Nẵng...), các nguồn lực tài chính, trang thiết bị và con người đã được quan tâm đầu tư, phát triển khá mạnh. Trong khi đó, tại nhiều địa phương khác, việc đầu tư các nguồn lực cho hoạt động quan trắc môi trường chưa được quan tâm, chú ý đúng mức. Thời gian qua, một số địa phương có những vấn đề “nóng” về môi trường (như: Lâm Đồng, Đăk Nông, An Giang, Lào Cai, Phú Thọ, Ninh Thuận...) cũng đã và đang xây dựng các dự án đầu tư tăng cường năng lực quan trắc môi trường.
Bảng 1. Danh sách các tỉnh/thành phố đã thành lập Trung tâm Quan trắc môi trường
c. Mạng lưới quan trắc môi trường thuộc các Bộ, ngành khác
Ngoài mạng lưới quan trắc môi trường tại Bộ Tài nguyên và Môi trường và các địa phương trên cả nước, tại các Bộ ngành khác, bên cạnh việc tham gia mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhiều Bộ ngành, cũng tiến hành quan trắc một số thành phần môi trường để đánh giá các tác động đến môi trường do hoạt động của ngành, lĩnh vực mình quản lý theo quy định tại Điều 94 của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. Đến nay, nhiều Bộ ngành như: Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Quốc phòng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam, Tập đoàn than và khoáng sản Việt Nam... đã có hoạt động quan trắc môi trường và cũng đã thu được những dữ liệu cơ bản phục vụ yêu cầu quản lý môi trường của Bộ, ngành mình.
2. Những kết quả đạt được
Trong thời gian vừa qua, hoạt động quan trắc môi trường quốc gia và địa phương đã đáp ứng một phần nhu cầu về số liệu, thông tin phục vụ công tác bảo vệ môi trường, xây dựng các báo cáo môi trường trình Chính phủ, Quốc hội và đề xuất các biện pháp quản lý, bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, nhiều báo cáo, số liệu kết quả quan trắc đã được công bố để cộng đồng tiếp cận và sử dụng phục vụ cho các mục đích nghiên cứu, đào tạo, nâng cao nhận thức cộng đồng, hội nhập và chia sẻ quốc tế...
Hoạt động quan trắc môi trường đã được các ngành, các cấp, các địa phương quan tâm và triển khai thực hiện ở những mức độ khác nhau phục vụ việc quản lý môi trường của mình. Một số trạm quan trắc đã có cơ sở vật chất cơ bản, tối thiểu (bao gồm thiết bị quan trắc và phòng thí nghiệm) đáp ứng yêu cầu công tác quan trắc môi trường. Một số nội dung cụ thể đã được thực hiện như:
- Bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tài liệu hướng dẫn kỹ thuật, hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật và đơn giá trong quan trắc môi trường;
- Tổ chức và đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Quyết định số 16/2007/QĐ-TTg ngày 29 tháng 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể hệ thống quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia đến năm 2020 đối với mạng quan trắc môi trường quốc gia. Đây là kim chỉ nam cho mọi hoạt động quan trắc môi trường thời gian qua;
- Đầu tư, tăng cường năng lực cho Trung tâm Quan trắc môi trường thuộc Tổng cục Môi trường để thực hiện vai trò chỉ huy, điều hàng mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia. Cụ thể là:
+ Tăng cường trang thiết bị phục vụ lấy mẫu, đo và phân tích tại hiện trường và các phương tiện bảo quản, vận chuyển mẫu về phòng thí nghiệm;
+ Xây dựng và vận hành Phòng thí nghiệm trọng tài ở cấp quốc gia, đạt chuẩn ISO/IEC 17025;
+ Xây dựng và chuẩn bị đưa vào vận hành Phòng Kiểm chuẩn môi trường ở cấp quốc gia phục vụ hiệu chuẩn một số thiết bị quan trắc môi trường;
+ Nâng cấp, xây dựng hệ thống thông tin truyền nhận số liệu tự động từ các điểm, trạm quan trắc về Trung tâm đầu mạng, phù hợp với hệ thống thông tin quan trắc của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
- Duy trì hệ thống quan trắc môi trường quốc gia với 21 trạm quan trắc tổng hợp và chuyên ngành; thực hiện các chương trình quan trắc các thành phần môi trường (nước mặt lục địa, nước mưa, nước biển, không khí và tiếng ồn, phóng xạ, đất, chất thải rắn,…) với hàng nghìn điểm quan trắc trong đó chủ yếu tập trung vào các điểm nóng về môi trường và các khu vực, các vùng sinh thái đặc biệt nhạy cảm về môi trường tại hầu hết các địa phương trên cả nước;
- Duy trì và tăng cường hoạt động quan trắc tác động môi trường ở cấp quốc gia, đặc biệt đối với quan trắc chất lượng nước tại 3 lưu vực sông chính (lưu vực sông Cầu, lưu vực sông Nhuệ-Đáy và lưu vực hệ thống sông Đồng Nai) và quan trắc chất lượng nước và không khí tại các đô thị, vùng kinh tế trọng điểm (vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, miền Trung và phía Nam);
- Thiết kế mới các chương trình quan trắc môi trường quốc gia (chương trình quan trắc tác động của hoạt động khai thác và chế biến bauxit tại khu vực Tây Nguyên, chương trình quan trắc chất lượng nước tại các công trình thuỷ điện, chương trình quan trắc chất lượng nước các lưu vực sông chính, chương trình quan trắc môi trường khu vực làng nghề và nông thôn, chương trình quan trắc ô nhiễm xuyên biên giới...);